Di sản thừa kế từ lâu đã là một trong những vấn đề pháp lý phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp trong thực tiễn. Án lệ 05/2016/AL về tranh chấp di sản thừa kế được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, góp phần giải quyết các vụ việc tương tự một cách công bằng và minh bạch.
Trong phạm vi bài viết này, Luật Kỳ Vọng Việt sẽ làm rõ vấn đề Án lệ 05/2016/AL: Tranh chấp di sản thừa kế, dựa trên các quy định hiện hành của pháp luật.
📌1. Nguồn án lệ
Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày 09-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh.
📌2. Khái quát nội dung án lệ
Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
📌3. Đối tượng liên quan
– Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thưởng, Bà Nguyễn Thị Xuân.
– Bị đơn: Ông Nguyễn Chí Trải (Cesar Trai Nguyen), Chị Nguyễn Thị Thúy Phượng, Bà Nguyễn Thị Bích Đào.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Xê, Nguyễn Chí Đạt (Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Thị Thúy Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận, Trần Thành Khang.
📌4. Nội dung vụ án
– Tại đơn khởi kiện ngày 18-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân (nguyên đơn) trình bày:
+ Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Hưng và cụ Lê Thị Ngự có 6 người con là bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Hai cụ có tài sản chung là một căn nhà. Cụ Hưng chết năm 1978, cụ Ngự chết năm 1992 đều không để lại di chúc.
+ Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm 1966 thì hai cụ xây dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999.
+ Căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thúy Phượng là con ông Nguyễn Chí Trải đang quản lý. Trong quá trình quản lý, chị Phượng cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị Phượng ở đây có sửa chữa nhà nhưng không đáng kể, vợ chồng ông Trải cũng không có đóng góp gì vào việc xây dựng và sửa chữa.
+ Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác.
(a). Chị Nguyễn Thúy Phượng (bị đơn) trình bày:
– Cha chị là ông Nguyễn Chí Trải, mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người con gồm:
+ Chị Nguyễn Thúy Phượng
+ Anh Nguyễn Chí Đức (hiện sống ở Canada)
+ Chị Nguyễn Thị Thúy Loan (hiện sống ở Canada)
– Căn nhà 263 Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị mua năm 1953, là nhà ngói, vách ván.
– Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ chị và cha mẹ chị ở tại căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị chết năm 1980.
– Chị sống tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều lần.
(Như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà).
– Năm 2006, cha chị để lại di sản thừa kế tại Việt Nam từ cụ Hưng, cụ Ngự cho chị.
– Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn vì thời hiệu chia thừa kế đã hết, chị và hai con đang sống tại nhà. Chị cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì và sẽ tự giải quyết.
(b). Ông Nguyễn Chí Trải (bị đơn) trình bày:
– Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có đơn đề nghị xin hủy bỏ văn bản “cho đứt tài sản thừa kế của ông cho chị Phượng được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ tại Việt Nam”, xin ủy quyền cho bà Thường, bà Xuân thay mặt ông tại Tòa án. Phần tài sản thừa kế của ông xin được trao cho con trai là Nguyễn Chí Đức hiện cư trú tại Canada.
– Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông không đồng ý chia thừa kế nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp tục trông nom để ở, ông và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà này.
– Ngày 14-7-2010, ông Trải cho con trai Nguyễn Chí Đức tài sản thừa kế từ cha mẹ.
– Ngày 11-3-2011, ông Trải đồng ý với bản án sơ thẩm và không kháng cáo.
(c). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
– Bà Nguyễn Thị Trinh trình bày: thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Bà đề nghị kỷ phần thừa kế của bà giao cho bà Xuân, bà Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng trả lại nhà.
– Anh Nguyễn Chí Đạt (1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên đơn về việc chia thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và giao cho bà Thưởng, bà Xuân quản lý.
– Bà Nguyễn Thị Xê thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà là Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên.
– Chị Nguyễn Thị Thúy Loan, anh Nguyễn Chí Đức ủy quyền cho chị Phượng quyết định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay phân chia tài sản và nhà đất bên Việt Nam.
– Chị Loan có đơn (kèm theo văn bản ủy quyền) có nội dung xin vắng mặt phiên tòa ngày 13-8-2009. Về tài sản tranh chấp cha mẹ chị có tiền đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm 1975, mọi người đi hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị Tòa cho chị Phượng ở lại nhà đất tranh chấp.
📌5. Nội dung bản án dân sự sơ thẩm và bản án dân sự phúc thẩm
– Bản án 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của TAND TP.HCM buộc chị Phượng giao nhà chia thừa kế.
– Bản án phúc thẩm 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011, TAND tối cao TP.HCM giữ nguyên bản án sơ thẩm.
📌6. Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
– Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc.
– Các con hai cụ thừa nhận căn nhà số 263 Trần Bình Trọng do hai cụ tạo lập, hiện tại chị Phượng quản lý.
– Năm 2008, bà Xuân, bà Thưởng khởi kiện chia thừa kế di sản cụ Hưng, cụ Ngự.
– Thời hiệu: cụ Hưng còn, cụ Ngự hết; các thừa kế đồng ý chia đều di sản cụ Ngự.
– Cụ Hưng chết 1978, ông Trải hưởng 1/7 di sản; tài sản chung với bà Tư.
– Bà Tư chết 1980, chị Phượng là thừa kế; ông Trải chuyển di sản cho anh Đức là sai.
– Chị Phượng sinh 1953, quản lý nhà từ 1982, sử dụng sau khi cụ Ngự chết đến nay.
– Tòa buộc giao nhà, không xem xét chỗ ở và quyền thừa kế của chị Phượng là chưa phù hợp.
– Chị Phượng là cháu nội, có công sửa chữa nhà, nhưng không yêu cầu xem xét công sức.
– Tòa chưa xem xét công sức chị Phượng, giải quyết chưa triệt để.
📌7. Quyết định giám đốc thẩm
– Hủy Bản án phúc thẩm TAND tối cao TP.HCM và Bản án sơ thẩm TAND TP.HCM.
– Giao hồ sơ vụ án cho TAND TP.HCM xét xử sơ thẩm lại theo quy định pháp luật.
📌8. Kinh nghiệm rút ra từ án lệ
– Bảo đảm công bằng trong phân chia di sản.
– Xem xét công sức đóng góp vào di sản, dù đương sự không yêu cầu hay phản đối.
– Nếu đương sự không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), đương sự cần phải nêu rõ thêm rằng trong trường hợp thời hiệu chia di sản vẫn còn, đương sự yêu cầu Tòa án xem xét công sức đóng góp của đương sự vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế.
– Thời hiệu khởi kiện thừa kế cần được xác định chính xác để bảo vệ quyền lợi các bên.
Trân trọng cảm ơn!
Zalo: 090.225.5492
Xem thêm:
- Án lệ 03/2016/AL: Quyết định giám đốc thẩm vụ ly hôn tại Hà Nội
- Án lệ 04/2016: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thời điểm lập hóa đơn theo quy định mới nhất
- Các trường hợp không được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
- Quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một người